– Lúa mùa: Tính đến 20/11/2024, cả nước thu hoạch được 1.403,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 95,7% cùng kỳ năm trước, trong đó, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch 933,8 nghìn ha; các địa phương phía Nam thu hoạch 469,6 nghìn ha.
– Lúa mùa: Tính đến 20/11/2024, cả nước thu hoạch được 1.403,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 95,7% cùng kỳ năm trước, trong đó, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch 933,8 nghìn ha; các địa phương phía Nam thu hoạch 469,6 nghìn ha.
– Trong tháng Mười Một, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 21,3% so với tháng trước và giảm 22,6% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% và tăng 17,4%; có 4.243 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 22,2% và giảm 5,9%; 7.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 39,2% và tăng 14,4%; có 1.910 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,9% và tăng 14,2%.
Tính chung mười một tháng năm 2024, cả nước có hơn 218,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023; bình quân một tháng có gần 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 173,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có hơn 15,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường
– Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 572,0 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% kế hoạch năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 bằng 76,3% và tăng 24,3%).
– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/11/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,38 tỷ USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước.
– Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam mười một tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.
– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong mười một tháng năm 2024 có 151 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 555,2 triệu USD; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh 43,5 triệu USD. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 598,7 triệu USD, tăng 51,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 139,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.808,5 nghìn tỷ đồng, bằng 106,3% dự toán năm và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 170,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.560,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6% dự toán năm và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 11/2024 ước đạt 562,0 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.822,3 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 9,7%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ năm 2023 tăng 7,0%).
Trong tháng Mười Một, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa[3] sơ bộ đạt 66,4 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,4%; nhập khẩu tăng 16,4%[4]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,31 tỷ USD.
+ Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2024 sơ bộ đạt 33,73 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước và tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 369,93 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 103,88 tỷ USD, tăng 20,0%, chiếm 28,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 266,05 tỷ USD, tăng 12,4%, chiếm 71,9%.
+ Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu mười một tháng năm 2024 nhóm hàng công nghiệp chế biến sơ bộ đạt 325,52 tỷ USD, chiếm 88,0%.
+ Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2024 sơ bộ đạt 32,67 tỷ USD, giảm 2,8% so với tháng trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 345,62 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 126,05 tỷ USD, tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 219,57 tỷ USD, tăng 15,2%.
+ Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu mười một tháng năm 2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất sơ bộ đạt 323,72 tỷ USD, chiếm 93,7%.
– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa mười một tháng năm 2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 108,9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 130,2 tỷ USD.
– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Mười Một sơ bộ xuất siêu 1,06 tỷ USD. Tính chung mười một tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 24,31 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 26,2 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 22,17 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 46,48 tỷ USD.
c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,13% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Mười Một tăng 2,65% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,77%. Bình quân mười một tháng năm 2024, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,7%.
– Chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 2,26% so với tháng trước; tăng 32,91% so với tháng 12/2023; tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,42%.
– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2024 tăng 1,76% so với tháng trước; tăng 4,22% so với tháng 12/2023; tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024 tăng 4,97%.
d) Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách tháng 11/2024 ước đạt 464,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 23,8 tỷ lượt khách.km, tăng 12,0%. Tính chung mười một tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 4.596,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 250,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,6%.
Vận tải hàng hóa tháng 11/2024 ước đạt 246,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 49,6 tỷ tấn.km, tăng 14,4%. Tính chung mười một tháng năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 2.420,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 493,5 tỷ tấn.km, tăng 11,5%.
Khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11/2024 tăng cao, đạt 1,7 triệu lượt người, tăng 38,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, khách quốc tế đến nước ta đạt hơn 15,8 triệu lượt người, tăng 41,0% so với cùng kỳ năm trước.
– Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong mười một tháng năm nay, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 21,8 nghìn tấn gạo, trong đó: Chính phủ hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 693,4 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ hơn 5,9 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho 396,3 nghìn nhân khẩu; các địa phương cũng xây dựng kế hoạch, chủ động bố trí ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để hỗ trợ gần 5 nghìn tấn gạo cho các hộ nghèo, cận nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn.
– Trong mười một tháng năm 2024, cả nước có 114,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (18 ca tử vong); 67,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 14,3 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi (04 ca tử vong); 74 trường hợp tử vong do bệnh dại; 532 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (06 ca tử vong); 22 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu; 10 trường hợp mắc bạch hầu (01 ca tử vong); 01 trường hợp mắc cúm A và đã tử vong.
– Trong tháng Mười Một (từ 26/10-25/11/2024), cả nước đã xảy ra 1.994 vụ tai nạn giao thông. Tính chung mười một tháng năm 2024, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 21.453 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.940 người, bị thương 15.896 người. Bình quân một ngày trong mười một tháng năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra 64 vụ tai nạn giao thông, làm chết 30 người, bị thương 47 người.
– Thiệt hại do thiên tai trong tháng Mười Một chủ yếu do ảnh hưởng của mưa lớn, lũ, ngập lụt. Tính chung mười một tháng năm nay, thiên tai làm 541 người chết và mất tích, 2.189 người bị thương; 299,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; gần 5,3 triệu con gia súc, gia cầm bị chết; 92,2 nghìn ha hoa màu và 314,8 nghìn ha lúa bị ngập, hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 84.345,1 tỷ đồng, gấp hơn 19,1 lần cùng kỳ năm 2023.
– Trong tháng (từ 18/10-17/11/2024), các cơ quan chức năng phát hiện 978 vụ vi phạm môi trường tại 49/63 địa phương. Tính chung mười một tháng năm nay, các cơ quan chức năng phát hiện 20.260 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 18.623 vụ với tổng số tiền phạt 280,9 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.
– Trong mười một tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.772 vụ cháy, nổ, làm 96 người chết và 111 người bị thương, thiệt hại ước tính 454,3 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước./.
[1] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 02/12/2024. Thực hiện Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2024), thời kỳ số liệu về đăng ký doanh nghiệp trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo. Riêng đối với các chỉ tiêu thời điểm (doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể), thời kỳ số liệu các tháng trước thời điểm 01/8/2024 được tính từ ngày 21 của tháng trước tháng báo cáo đến ngày 20 của tháng báo cáo.
[2] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu).
[3] Số liệu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 11/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 3/12/2024.
[4] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa mười một tháng năm 2023 đạt 620,2 tỷ USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 323,2 tỷ USD, giảm 5,7%; nhập khẩu đạt 297,0 tỷ USD, giảm 13,3%.
Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Cụ thể, Liên hợp quốc (UN) nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024; Ngân hàng Thế giới (WB) cùng nhận định tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, giảm so với mức 2,6% trong năm 2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định GDP toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 2,9%, thấp hơn mức tăng trưởng 3,1% của năm 2023; Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng toàn cầu (không bao gồm EU) năm 2024 đạt 3,3%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023. Riêng Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2024 bằng với năm 2023, ở mức 3,1%.
Đối với Việt Nam, trái ngược với xu hướng tăng trưởng thấp của năm trước, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức dự báo 4,7% của năm 2023; UN và AMRO đều nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, cao hơn mức dự báo 4,7% và 5,1% của năm 2023.
I. Dự báo tình hình kinh tế thế giới
1. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 dự báo thấp
Các tổ chức quốc tế (UN, WB, OECD và EU) đều cho rằng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 sẽ thấp hơn năm 2023, riêng IMF dự báo bằng với năm 2023.
Trong báo cáo tình hình và triển vọng kinh tế thế giới 2024, UN nhận định trong bối cảnh rủi ro và bất ổn kéo dài, tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo sẽ chậm lại từ mức 2,7% năm 2023 xuống 2,4% vào năm 2024. Mặc dù kinh tế thế giới tránh được kịch bản tồi tệ nhất là suy thoái kinh tế vào năm 2023, nhưng có nguy cơ đối mặt với thời kỳ tăng trưởng thấp kéo dài. Tốc độ tăng trưởng của Hoa Kỳ dự báo sẽ giảm từ mức 2,5% của năm 2023 xuống 1,4% trong năm 2024. Châu Âu gặp nhiều thách thức trong bối cảnh lạm phát vẫn neo cao và lãi suất cao, tuy nhiên tăng trưởng GDP của khối này được dự báo sẽ tăng từ mức 0,5% năm 2023 lên 1,2% vào năm 2024. Triển vọng tăng trưởng ở nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia dễ bị tổn thương và thu nhập thấp, vẫn còn yếu, khiến việc phục hồi hoàn toàn những tổn thất do đại dịch Covid-19 trở nên khó khăn hơn.
Trong Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu, WB dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,4%, thấp nhất trong ba năm liên tiếp (từ mức 6,0% năm 2021 xuống 3,0% năm 2022, 2,6% năm 2023 và 2,4% năm 2024). Mức sụt giảm tăng trưởng này phản ánh tác động trễ của các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát cao, các điều kiện tín dụng hạn chế cũng như thương mại và đầu tư toàn cầu yếu. Triển vọng năm 2024 cũng cho thấy mức tăng trưởng chậm lại ở các nền kinh tế phát triển (dự báo chỉ đạt 1,2%), nhưng cải thiện phần nào tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (dự báo đạt 3,9%).
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
Trong báo cáo sơ bộ Triển vọng kinh tế của OECD tháng 02/2024, OECD nhận định tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 2,9%, thấp hơn mức 3,1% của năm 2023. Tăng trưởng GDP năm 2024 của Hoa Kỳ dự báo vẫn được hỗ trợ bởi chi tiêu hộ gia đình và điều kiện thị trường lao động mạnh mẽ, nhưng đạt mức vừa phải (2,1%). Tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2024 dự báo chỉ đạt 0,6% do các điều kiện tín dụng tiếp tục thắt chặt trong thời gian tới. Tăng trưởng năm 2024 của Trung Quốc dự báo đạt 4,7% mặc dù Trung Quốc bổ sung thêm các chính sách kích thích kinh tế, điều này phản ánh nhu cầu tiêu dùng yếu, nợ cao và thị trường bất động sản yếu kém.
Theo Dự báo kinh tế mùa đông 2024 của EU, tăng trưởng toàn cầu (không bao gồm EU) đạt 3,3% vào năm 2024 thấp hơn mức 3,5% của năm 2023. Trong đó, dự báo tăng trưởng ở các nền kinh tế phát triển không bao gồm EU giảm từ mức 2,2% của năm 2023 xuống 1,9% trong năm 2024; tăng trưởng của Hoa Kỳ được dự báo đạt 2,1% trong năm 2024, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2023; nền kinh tế Nhật Bản đã chậm lại rõ rệt trong những tháng gần đây, tốc độ tăng trưởng trong năm 2024 được dự báo thấp hơn năm 2023 khi tiêu dùng tư nhân, thương mại và đầu tư yếu hơn. Tăng trưởng năm 2024 ở các nền kinh tế mới nổi (bao gồm cả Trung Quốc) được dự báo đạt 4,1%, giảm nhẹ so với mức 4,2% trong năm 2023. Nhu cầu trong nước của Trung Quốc vẫn yếu do khủng hoảng bất động sản tiếp tục đè nặng lên chi tiêu của hộ gia đình và doanh nghiệp. Mức nợ cao đang tác động tiêu cực lên các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời hạn chế khả năng can thiệp chính sách của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, các nền kinh tế thị trường mới nổi và đang phát triển khác cho thấy khả năng phục hồi đáng kinh ngạc bất chấp những cơn gió ngược toàn cầu, với mức tăng trưởng dự báo sẽ tăng dần vào năm 2024.
Theo báo cáo Cập nhật triển vọng kinh tế thế giới tháng 01/2024 của IMF, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 3,1%, giữ nguyên so với tăng trưởng năm 2023. Số liệu này phản ánh các chính sách tiền tệ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ tài chính cũng như tăng năng suất thấp. Tăng trưởng năm 2024 của các nền kinh tế phát triển dự báo giảm nhẹ và đạt 1,5% với sự phục hồi ở khu vực đồng Euro và tăng trưởng vừa phải ở Hoa Kỳ. Thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển dự báo tăng trưởng ổn định ở mức 4,1% trong năm 2024, nhưng khác nhau theo các khu vực.
Hình 1. Tăng trưởng toàn cầu năm 2022, ước tính năm 2023 và dự báo năm 2024 của các tổ chức quốc tế
* Số liệu năm 2022 theo báo cáo Triển vọng kinh tế OECD phát hành tháng 11/2023
** Tăng trưởng toàn cầu không bao gồm các quốc gia EU
Biểu đồ trên cho thấy các tổ chức quốc tế gồm UN, WB, OECD nhận định tăng trưởng GDP toàn cầu giai đoạn 2022-2024 giảm dần. Cụ thể, UN cho rằng tăng trưởng toàn cầu giai đoạn 2022-2024 mỗi năm giảm 0,3 điểm phần trăm từ mức 3,0% năm 2022 xuống 2,7% năm 2023 và 2,4% năm 2024; OECD đánh giá tăng trưởng toàn cầu giảm 0,2 điểm phần trăm mỗi năm cho giai đoạn 2022-2024; Mức giảm tăng trưởng toàn cầu do WB đưa ra từ 3,0% năm 2022 xuống 2,6% năm 2023 và 2,4% năm 2024. Trong khi đó, IMF nhận định đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ mức 3,5% trong năm 2022 xuống mức 3,1% cho hai năm 2023 và 2024. Trong các tổ chức quốc tế, EU nhìn nhận khả quan hơn về tăng trưởng của thế giới (không bao gồm EU) khi đưa ra đánh giá tăng trưởng kinh tế thế giới cao hơn các tổ chức khác, cụ thể EU nhận định tăng trưởng năm 2023 cao nhất trong giai đoạn 2022-2024, từ mức 3,3% trong năm 2022 lên 3,5% trong năm 2023 và giảm về 3,3% năm 2024.
2. Biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa toàn cầu tăng trưởng yếu trong năm 2024
Trong báo cáo Thước đo thương mại hàng hóa công bố ngày 08/3/2024, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhận định thương mại hàng hóa toàn cầu ghi nhận mức tăng khiêm tốn trong Quý I/2024 sau kết quả yếu kém của năm 2023. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa đạt 100,6 cao hơn một chút so với giá trị cơ bản (là 100). Điều này cho thấy thương mại hàng hóa có khả năng dần phục hồi trong những tháng đầu năm 2024, tuy nhiên, căng thẳng địa chính trị tiếp tục gây ra rủi ro đối với triển vọng trong ngắn hạn.
Các chỉ số thành phần của thước đo thương mại hàng hóa hầu hết ở mức trung bình, chỉ số về đơn đặt hàng xuất khẩu (101,7) và vận tải hàng không (102,3) tăng nhẹ so với xu hướng trong khi chỉ số vận chuyển container (98,6) và thương mại nguyên liệu thô (99,1) vẫn ở dưới xu hướng một chút. Chỉ số sản xuất và bán ô tô (106,3) cao so với xu hướng nhưng đang có dấu hiệu mất đà trong những tháng gần đây. Ngoài ra, sự phục hồi trong giao dịch linh kiện điện tử cũng giảm dần (95,6).
WB dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu tăng từ mức 0,2% năm 2023 lên 2,3% trong năm 2024, một phần phản ánh sự phục hồi của nhu cầu đối với hàng hóa, đặc biệt tại các nền kinh tế phát triển. IMF nhận định tăng trưởng thương mại thế giới đạt 3,3% vào năm 2024, thấp hơn mức trung bình 4,9% của giai đoạn 2000-2019. Căng thẳng thương mại gia tăng và sự phân mảnh địa kinh tế dự kiến sẽ tiếp tục đè nặng lên tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2024 khi các quốc gia đã áp đặt khoảng 3.000 hạn chế trong năm 2023 (năm 2019 là 1.100 hạn chế).
OECD có cùng nhận định với WB khi cho rằng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn trầm lắng nhưng đã bắt đầu có một số dấu hiệu cải thiện. Sản xuất chất bán dẫn và điện tử ở châu Á tăng cùng với doanh số bán ô tô tăng mạnh đang giúp củng cố thương mại hàng hóa và dịch vụ. Các cuộc tấn công vào hoạt động vận tải biển ở Biển Đỏ đã khiến các luồng thương mại phải định tuyến lại, làm tăng chi phí vận chuyển và kéo dài thời gian giao hàng, đặc biệt đối với thương mại từ châu Á đến châu Âu. Điều này đã bắt đầu làm gián đoạn lịch trình sản xuất ở châu Âu, đặc biệt đối với các nhà sản xuất ô tô.
Lạm phát toàn cầu tiếp tục xu hướng giảm về mức mục tiêu
OECD nhận định trong trường hợp không có thêm những cú sốc bất lợi về nguồn cung, nhu cầu hạ nhiệt sẽ cho phép lạm phát chung và lạm phát cơ bản giảm hơn nữa ở hầu hết các nền kinh tế.
Theo WB, lạm phát toàn cầu và lạm phát cơ bản tiếp tục giảm so với mức đỉnh 8,59% trong Quý III/2022. Tuy nhiên, lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu ở hầu hết các nền kinh tế phát triển và khoảng một nửa các quốc gia thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Lạm phát toàn cầu năm 2024 được dự báo ở mức 3,7%, tuy vẫn cao hơn mức trung bình trước đại dịch nhưng đang tiệm cận mức mục tiêu lạm phát của ngân hàng trung ương. Việc thắt chặt tiền tệ của các nền kinh tế phát triển dần đi đến hồi kết, nhưng lãi suất thực tế dự kiến sẽ vẫn tăng cao cho đến khi lạm phát dần trở lại mức mục tiêu khiến quan điểm hạn chế chính sách tiền tệ của các nền kinh tế phát triển sẽ tiếp tục được duy trì trong thời gian tới.
IMF cũng đồng quan điểm khi cho rằng lạm phát toàn cầu dự báo sẽ giảm từ mức 6,8% trong năm 2023 (mức trung bình hàng năm) xuống 5,8% vào năm 2024. Theo đó, trong năm 2024, mức lạm phát của các nền kinh tế phát triển dự báo giảm nhanh, đạt 2,6%, trong khi lạm phát ở các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển giảm nhẹ, đạt 8,1%.
Cuộc xung đột gần đây ở Trung Đông cho đến nay tác động không đáng kể đến giá cả hàng hóa. Giá trung bình của hầu hết các mặt hàng tính theo đồng đô la Mỹ đã giảm kể từ năm 2023 trong bối cảnh nhu cầu giảm, tuy nhiên vẫn cao hơn mức trước đại dịch.
Giá dầu dự báo sẽ giảm xuống còn 81 USD/thùng vào năm 2024 khi hoạt động toàn cầu chậm lại và nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm tốc. Giá kim loại giảm 10% trong năm 2023 do nhu cầu thấp từ các nền kinh tế lớn – đặc biệt là Trung Quốc, quốc gia chiếm 60% lượng tiêu thụ kim loại toàn cầu, trong bối cảnh lĩnh vực bất động sản của nước này suy yếu kéo dài.
Giá kim loại dự báo sẽ giảm hơn nữa trong năm 2024, trước khi tăng vào năm 2025 khi lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc ổn định và nhu cầu về kim loại được sử dụng trong quá trình chuyển đổi xanh (như đồng và niken) tăng lên.
Giá lương thực đã giảm 9% vào năm 2023, phản ánh nguồn cung dồi dào từ các loại cây trồng chính, đặc biệt ngũ cốc. Gạo là ngoại lệ khi tăng 27% năm 2023 trong bối cảnh hạn chế xuất khẩu gạo non-basmati từ Ấn Độ. Dự báo giá lương thực sẽ tiếp tục giảm khoảng 1% năm 2024. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của FAO (FFPI)trong tháng 02/2024 ở mức 117,3 điểm, giảm 0,9 điểm (tương ứng giảm 0,7%) so với tháng 01/2024, do giá ngũ cốc và dầu thực vật giảm nhiều hơn so với mức tăng của giá đường, thịt và các sản phẩm từ sữa. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số FFPI giảm 13,8 điểm (tương ứng giảm 10,5%).
Thị trường lao động phục hồi nhưng không đồng đều
Theo UN, thị trường lao động toàn cầu đã phục hồi nhanh chóng kể từ sau đại dịch. Đến năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều nền kinh tế đã giảm xuống dưới mức trước đại dịch, đạt mức thấp gần như lịch sử ở Hoa Kỳ và một số nền kinh tế châu Âu. Tuy nhiên, sự phục hồi này không đồng đều, đặc biệt các nền kinh tế đang phát triển đang trải qua những xu hướng khác nhau. Brazil, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ chứng kiến tỷ lệ thất nghiệp giảm, nhưng nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là ở Tây Á và châu Phi đang trải qua tỷ lệ thất nghiệp cao. Ở hầu hết các nền kinh tế, tăng trưởng tiền lương không thể bù đắp được tác động của lạm phát và làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt. Thị trường lao động ở các nước đang phát triển tiếp tục đối mặt với những thách thức dai dẳng về việc làm phi chính thức, chênh lệch giới tính và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận định tăng trưởng việc làm cho thấy khả năng phục hồi của thị trường lao động. Trong năm 2023, nhờ tốc độ tăng trưởng việc làm mạnh mẽ, tỷ lệ thất nghiệp và khoảng cách việc làm đều giảm xuống dưới mức trước đại dịch. Tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2023 là 5,1%, khoảng cách việc làm toàn cầu cũng được cải thiện vào năm 2023, nhưng vẫn ở mức gần 435 triệu người. Ngoài ra, tỷ lệ tham gia thị trường lao động phần lớn đã phục hồi sau đại dịch, đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và các quốc gia có thu nhập cao. Tuy nhiên, triển vọng thị trường lao động trong thời gian tới chững lại khi tỷ lệ thất nghiệp dự báo sẽ tăng nhẹ từ mức 5,1% năm 2023 lên 5,2% vào năm 2024.
Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới
IMF chỉ ra bốn nhân tố rủi ro chính làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới, gồm:
Thứ nhất, giá hàng hóa tăng đột biến trong bối cảnh những cú sốc địa chính trị và thời tiết. Xung đột ở Trung Đông có thể leo thang sâu hơn, ảnh hưởng tới các khu vực sản xuất khoảng 35% lượng dầu và 14% lượng khí đốt xuất khẩu của thế giới. Các cuộc tấn công liên tục ở Biển Đỏ, nơi chiếm 11% dòng chảy thương mại toàn cầu, và xung đột ở U-crai-na có nguy cơ tạo ra những cú sốc bất lợi mới về nguồn cung đối với sự phục hồi toàn cầu, do chi phí lương thực, năng lượng và vận chuyển tăng đột biến. Sự phân mảnh địa kinh tế ngày càng tăng có thể hạn chế dòng hàng hóa xuyên biên giới, gây thêm biến động giá cả. Những cú sốc thời tiết cực đoan hơn, bao gồm lũ lụt và hạn hán, cùng với hiện tượng El Nino, cũng có thể khiến giá lương thực tăng cao, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực và làm gián đoạn quá trình giảm lạm phát trên toàn cầu.
Thứ hai, lạm phát cơ bản kéo dài, đòi hỏi lập trường chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn. Lạm phát cơ bản giảm chậm hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển do thị trường lao động thắt chặt và căng thẳng gia tăng trong chuỗi cung ứng có thể khiến kỳ vọng về lãi suất tăng lên và làm giá tài sản giảm. Những diễn biến như vậy có thể làm tăng rủi ro về ổn định tài chính, thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu, kích thích các dòng vốn chuyển sang nơi trú ẩn an toàn và củng cố đồng đô la Mỹ, gây ra những hậu quả bất lợi cho thương mại và tăng trưởng.
Thứ ba, tăng trưởng chững lại ở Trung Quốc. Nếu không có gói chính sách tái cơ cấu toàn diện cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, đầu tư bất động sản có thể giảm nhiều hơn dự kiến và kéo dài hơn, gây ra những tác động tiêu cực đến tăng trưởng trong nước và các đối tác thương mại. Việc thắt chặt tài chính ngoài dự kiến do những hạn chế về tài chính của chính quyền địa phương cũng có thể xảy ra khiến tiêu dùng của hộ gia đình giảm trong bối cảnh niềm tin bị suy giảm.
Thứ tư, các nền kinh tế chuyển hướng sang củng cố tài khóa. Củng cố tài khóa là cần thiết ở nhiều nền kinh tế để đối phó với tỷ lệ nợ gia tăng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch quá mạnh mẽ sang tăng thuế và cắt giảm chi tiêu vượt quá dự kiến có thể dẫn đến tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng trong thời gian tới. Phản ứng bất lợi của thị trường có thể gây áp lực khi thực hiện những điều chỉnh khắc nghiệt hơn tại các quốc gia có nền tảng tài khóa trung hạn thiếu vững chắc hoặc đang gặp khó khăn về nợ. Điều này dẫn tới hạn chế đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
II. Tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á và Việt Nam
Theo báo cáo “Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3” của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN+3 (AMRO), ASEAN+3 được dự báo sẽ tăng trưởng 4,5% trong năm 2024 do khu vực bên ngoài được cải thiện sẽ hỗ trợ thêm cho nhu cầu trong nước. Lạm phát sẽ tiếp tục ở mức vừa phải vào năm 2024. Nhu cầu trong nước mạnh mẽ tiếp tục củng cố tăng trưởng ở ASEAN+3. Tiêu dùng tư nhân vẫn ổn định nhờ điều kiện thị trường lao động thuận lợi trong bối cảnh lạm phát giảm. Doanh số bán lẻ và chi tiêu cho dịch vụ tiếp tục tăng mạnh nhờ hưởng lợi từ sự phục hồi của du lịch và lữ hành. Hoạt động đầu tư đã tăng tốc ở các nền kinh tế ASEAN cùng với sự gia tăng số lượng phê duyệt đầu tư.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a đạt 4,4%; Ma-lai-xi-a 2,6%; Phi-li-pin 5,9%; Thái Lan 2,8%, Xin-ga-po 1,1%. Tăng trưởng Quý I/2024 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là -0,5%; 0,9%; 1,1%; 0,8% và 0,8%.
Hình 2. Dự báo tăng trưởng năm 2024 của các quốc gia ASEAN
Như vậy, tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam được nhận định đứng thứ 3 khu vực, đạt 6,0%, chỉ sau Phi-li-pin (6,3%) và Cam-pu-chia (6,2%). Tăng trưởng của Bru-nây được dự báo thấp nhất trong khu vực, chỉ đạt 2,4%.
Tiêu dùng cá nhân dự kiến sẽ duy trì ở mức ổn định tại hầu hết các nền kinh tế trong khu vực nhờ áp lực lạm phát giảm dần và thị trường lao động ổn định. Việc mở cửa trở lại và lượng khách quốc tế phục hồi giúp tăng cường doanh thu từ du lịch của nhiều nền kinh tế trong khu vực Đông Á, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ. Ngoài ra, một số nền kinh tế đang nỗ lực thực hiện các chính sách đổi mới sáng tạo mang tính chiến lược, thúc đẩy đa dạng hóa xuất khẩu và tăng cường tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Theo đó, UN dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, tăng 1,3 điểm phần trăm so với mức 4,7% của năm 2023.
Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 01/2024, WB nhận định sản xuất công nghiệp tiếp tục cải thiện hơn nhưng triển vọng vẫn khá ảm đạm. Tiếp nối đà hoạt động kinh tế tích cực kể từ Quý IV/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,08% so với tháng trước và tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục phục hồi do nhu cầu bên ngoài được cải thiện, tăng 11,1% so với tháng trước và 42,0% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn ổn định khi cam kết FDI đạt gần 2,4 tỷ USD trong tháng 01/2024. Giải ngân vốn FDI đạt 1,5 tỷ USD trong tháng 01/2024, cao hơn 9,6% so với một năm trước. Tuy nhiên, tăng trưởng tiêu dùng có thể chưa đạt kỳ vọng do niềm tin của người tiêu dùng vẫn còn yếu. Sự gia tăng của chi phí logistics quốc tế đối với thương mại hàng hóa do xung đột Trung Đông, mặc dù mang tính thời điểm tạm thời, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam và sự phục hồi của nền kinh tế. Chênh lệch giữa lãi suất toàn cầu và trong nước có thể gây áp lực lên thị trường ngoại hối. WB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức 4,7% của năm 2023.
Nhu cầu trong nước mạnh mẽ tiếp tục củng cố tăng trưởng ở ASEAN+3. Tiêu dùng tư nhân vẫn ổn định nhờ điều kiện thị trường lao động thuận lợi trong bối cảnh lạm phát thấp hơn. Doanh số bán lẻ và chi tiêu cho dịch vụ tiếp tục tăng mạnh, được hưởng lợi từ sự phục hồi liên tục trong lĩnh vực du lịch và lữ hành. Xuất khẩu hàng hóa của ASEAN+3 dần cải thiện. Nhu cầu hàng hóa từ Hoa Kỳ dần trở lại bình thường cũng có thể tác động tích cực đến xuất khẩu trong khu vực. Du lịch tiếp tục giúp xuất khẩu dịch vụ ASEAN+3 tăng, phản ánh sự quay trở lại của khách du lịch Trung Quốc. Lạm phát có xu hướng giảm cùng với giá hàng hóa toàn cầu, đồng thời giá lương thực cũng giảm do sản lượng tăng trong khu vực. Theo đó, AMRO dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,0% trong năm 2024, cao hơn 0,9 điểm phần trăm so với mức 5,1% trong năm 2023.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý I/2024 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 4,9%.
Hình 3. Ước tính tăng trưởng của Việt Nam năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo một số tổ chức quốc tế
Như vậy, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023, đạt khoảng 5,5% – 6,0%./.
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
Nguồn: Trích báo cáo “Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới quý I và cả năm 2024 - Tổng cục thống kê”;
Tại thời điểm tháng 6/2024[1], các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB)[2] dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 2,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024); Fitch Ratings (FR)[3]dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 3/2024; Liên hợp quốc (UN)[4] nhận định nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% trong năm 2024 (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024); Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)[5] dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2024 đạt 3,1% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 02/2024); Liên minh châu Âu (EU)[6] dự báo kinh tế toàn cầu năm 2024 tăng trưởng 3,2% (tăng 0,1 điểm phần trăm so với tăng trưởng năm 2023); Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)[7] nhận định nền kinh thế giới đạt mức tăng trưởng 3,2% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024.
Theo báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á” của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)[8], tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á (bao gồm Timo-Leste) dự báo đạt 4,6% trong năm 2024 do nhu cầu nội địa tăng cao và du lịch tiếp tục phục hồi. Tăng trưởng của Việt Nam và Phi-li-pin năm 2024 được dự báo cao nhất khu vực, cùng đạt 6,0%, theo sau là Cam-pu-chia 5,8%, In-đô-nê-xi-a 5,0%, Ma-lai-xi-a 4,5% và Lào 4,0%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan, Xin-ga-po được dự báo thấp hơn từ 2,3 đến 2,5 lần so với Việt Nam và Phi-li-pin, lần lượt đạt 2,6% và 2,4%. Tăng trưởng kinh tế của Mi-an-ma được dự báo thấp nhất khu vực trong năm 2024, chỉ đạt 1,2%.
Các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB và OECD) đều nhận định tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 cao hơn năm 2023 từ 0,5-1,0 điểm phần trăm, lần lượt ở các mức 5,5%; 5,8%; 6,0% và 6,0%.
1. Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2024 lạc quan hơn so với các dự báo trước đó
Các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với dự báo trước đó.
Trong Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024, WB dự báo nền kinh tế toàn cầu đang ổn định sau nhiều năm chịu những cú sốc. WB điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024, lên 2,6% (tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024) chủ yếu là do nền kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục tăng trưởng vững chắc. Tăng trưởng năm 2024 ở các nền kinh tế phát triển được dự báo đạt 1,5% (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024), nhưng có sự khác biệt rõ rệt trong tăng trưởng ở các nền kinh tế lớn. Tăng trưởng tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự báo đạt 4,0% trong năm 2024 (tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm). Giảm tốc tăng trưởng ở Trung Quốc dự kiến sẽ được bù đắp bằng tăng trưởng vững chắc ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi khác nhờ nhu cầu trong nước được cải thiện và thương mại phục hồi.
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024, FR dự báo kinh tế toàn cầu năm 2024 đạt 2,6%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 3/2024. Điều chỉnh tăng này là do kinh tế của khu vực châu Âu có dấu hiệu phục hồi, xuất khẩu của Trung Quốc cải thiện và nhu cầu nội địa ở các nền kinh tế mới nổi (trừ Trung Quốc) tăng. So với dự báo đưa ra vào tháng 3/2024, FR nhận định kinh tế Hoa Kỳ đang chậm dần và giữ nguyên dự báo tăng trưởng năm 2024 của quốc gia này ở mức 2,1%. Tăng trưởng của khu vực đồng Euro được FR điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm, đạt 0,8%. Trung Quốc được dự báo đạt mức tăng trưởng 4,8%, tăng 0,3 điểm phần trăm. Tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi (trừ Trung Quốc) đạt 3,7%, cao hơn 0,5 điểm phần trăm.
Trong báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới giữa năm 2024, UN nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu cải thiện đáng kể so với dự báo trong tháng 01/2024. Hầu hết các nền kinh tế lớn lạm phát đã hạ nhiệt, tỷ lệ thất nghiệp ổn định và nguy cơ suy thoái kinh tế đã được kiểm soát. Tuy nhiên, lãi suất cao trong thời gian dài, khó khăn về nợ và rủi ro địa chính trị leo thang sẽ tiếp tục thách thức tăng trưởng bền vững của kinh tế toàn cầu. Theo đó, UN dự báo kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng 2,7% năm 2024 (tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024). Điều chỉnh tăng chủ yếu do triển vọng được cải thiện ở Hoa Kỳ và một số nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt Ấn Độ và Bra-xin.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế tháng 6/2024, OECD dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 3,1% trong năm 2024, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024. Sự khác biệt tăng trưởng giữa các nền kinh tế sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới nhưng sẽ giảm dần khi châu Âu phục hồi vững chắc hơn, Hoa Kỳ, Ấn Độ và một số nền kinh tế mới nổi khác tăng trưởng chậm lại. Tăng trưởng của Hoa Kỳ được thúc đẩy bởi tiêu dùng hộ gia đình mạnh mẽ và chính sách tài khóa mở rộng, nhưng lại suy yếu ở nhiều nền kinh tế phát triển khác. Trong số các nền kinh tế mới nổi, Ấn Độ đạt mức tăng trưởng GDP cao nhờ đầu tư công tăng cao, Bra-xin, Mê-hi-cô và Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng khá mặc dù điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Tăng trưởng cũng được củng cố ở Trung Quốc trong quý đầu của năm 2024 nhờ các chính sách kích thích bù đắp sự suy yếu của thị trường bất động sản.
Theo Dự báo kinh tế mùa xuân 2024 của EU phát hành vào tháng 5/2024, tăng trưởng toàn cầu tăng từ 3,1% năm 2023 lên 3,2% trong năm 2024. Nếu không bao gồm EU, tăng trưởng toàn cầu dự báo đạt 3,5% trong năm 2024, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 11/2023. Triển vọng tăng trưởng năm 2024 được điều chỉnh tăng là do kinh tế Hoa Kỳ và một số nền kinh tế mới nổi, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ được cải thiện.
Theo báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 4/2024 của IMF, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 dự báo đạt 3,2%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình 3,8% của giai đoạn 2000-2019. Các nền kinh tế phát triển sẽ có mức tăng trưởng nhẹ, phản ánh sự phục hồi ở khu vực đồng Euro sau mức tăng trưởng thấp vào năm 2023; các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ có mức tăng trưởng ổn định trong năm 2024. Đối với các nền kinh tế phát triển, dự báo tăng trưởng đạt 1,7% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024. Tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, tăng trưởng dự báo đạt 4,2% trong năm 2024, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024.
Hình 1. Đánh giá tăng trưởng toàn cầu năm 2023 và dự báo năm 2024 của các tổ chức quốc tế[9]
Nguồn: WB, FR, UN, OECD, EU và IMF
Hình trên cho thấy hầu hết các tổ chức quốc tế (WB, FR, UN, OECD và IMF) đều nhận định tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu trong năm 2024 sẽ tương đương mức tăng năm 2023, đạt từ 2,6% đến 3,2%. Riêng EU đánh giá khả quan hơn khi dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2024 đạt 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức tăng năm 2023 và cũng là mức tăng cao nhất trong các dự báo.
2. Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại hàng hóa toàn cầu cải thiện dần trong năm 2024
Trong báo cáo Triển vọng thương mại toàn cầu và thống kê, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)[10] nhận định tăng trưởng thương mại sẽ cải thiện dần trong năm 2024 bất chấp xung đột khu vực và căng thẳng địa chính trị. Khối lượng thương mại hàng hóa thế giới dự báo tăng 2,6% trong năm 2024 và 3,3% trong năm 2025 do nhu cầu giao dịch hàng hóa tăng trở lại sau khi suy giảm vào năm 2023. Giá năng lượng cao và lạm phát kéo dài đã tác động đến nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất phục vụ thương mại, nhưng nhu cầu này sẽ phục hồi khi áp lực lạm phát giảm bớt và thu nhập thực tế của hộ gia đình được cải thiện.
WB dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu đạt 2,5% trong năm 2024, cải thiện đáng kể so với mức 0,2% của năm trước nhưng vẫn thấp hơn tốc độ trung bình của hai thập kỷ trước đại dịch (2000-2019).
Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm về mức mục tiêu
OECD nhận định lạm phát chung đã giảm ở hầu hết các nền kinh tế nhờ thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ, giá năng lượng thấp hơn và áp lực chuỗi cung ứng tiếp tục giảm. Lạm phát giá lương thực cũng giảm mạnh ở hầu hết các quốc gia do bội thu các loại cây trồng chủ chốt như lúa mì và ngô. Lạm phát trung bình của các nền kinh tế phát triển giảm từ 9,9% trong Quý IV/2022 xuống còn 3,0% trong Quý I/2024. Lạm phát nhìn chung cũng giảm ở các nền kinh tế mới nổi, ngoại trừ Ác-hen-ti-na và Thổ Nhĩ Kỳ. Lạm phát ở Trung Quốc vẫn ở mức rất thấp, chỉ 0,3% trong tháng 05/2024. Khoảng 1/3 nền kinh tế trên toàn cầu có lạm phát chung hiện ở mức bằng hoặc dưới mức mục tiêu.
Theo WB, lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm nhưng vẫn trên mức mục tiêu ở hầu hết các nền kinh tế phát triển và ở khoảng 1/4 các các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Ở các nền kinh tế phát triển, giảm lạm phát trong giá hàng tiêu dùng dường như đã chạm đáy, trong khi lạm phát trong dịch vụ tiêu dùng vẫn ở mức cao. Tại Hoa Kỳ, hoạt động kinh tế mạnh mẽ, cùng với sự gia tăng nhanh chóng về chi phí nhà ở, làm tăng lạm phát cơ bản. Năng suất thấp ở khu vực đồng Euro đã khiến chi phí lao động trong toàn nền kinh tế cao hơn, làm tăng lạm phát cơ bản và dịch vụ, bất chấp nhu cầu yếu ở khu vực này. Tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, lạm phát nhìn chung tiếp tục giảm trong 12 tháng qua, có xu hướng gần bằng hoặc dưới mức trung bình trước đại dịch. Tuy nhiên, tiến độ này diễn ra chậm và không đồng đều ở các khu vực trên thế giới.
IMF cũng đồng quan điểm khi cho rằng lạm phát toàn cầu dự báo sẽ giảm từ mức trung bình 6,8% vào năm 2023 xuống còn 5,9% vào năm 2024 (điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2024).
Theo WB, dự báo giá hàng hóa trung bình sẽ giảm nhẹ nhờ nguồn cung được cải thiện. Rủi ro địa chính trị tiếp diễn khiến giá dầu Brent trung bình được dự báo ở mức 84 USD/thùng trong năm 2024 trong bối cảnh OPEC+ cắt giảm một phần nguồn cung. Giá khí đốt tự nhiên đã giảm gần 28,0% trong Quý I/2024 so với quý trước, trong bối cảnh sản xuất tăng trưởng mạnh, thời tiết mùa đông ôn hòa và hàng tồn kho tăng cao. Giá khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ dự báo sẽ ổn định trong thời gian tới. Giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu tăng trở lại trong Quý II/2024, phản ánh rủi ro nguồn cung dai dẳng liên quan đến xung đột đang diễn ra.
Hầu hết giá kim loại tương đối ổn định trong Quý I/2024. Tuy nhiên, trong số các kim loại quý, giá vàng đạt mức cao kỷ lục, bởi những lo ngại về địa chính trị và lực mua của các ngân hàng trung ương. Trong Quý II/2024, giá đồng đô la Mỹ tăng cao kỷ lục do lo ngại về nguồn cung, giá nhôm tiêu chuẩn tăng vọt sau khi áp dụng các lệnh trừng phạt mới đối với Liên bang Nga. Giá kim loại, ngoại trừ kim loại quý, được dự báo sẽ ít thay đổi trong giai đoạn 2024-2025, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trước đại dịch.
Giá hàng hóa nông nghiệp gần như không đổi trong Quý I/2024 và giá nông nghiệp trung bình dự báo sẽ giảm trong năm 2024 và 2025. Giá lương thực, thực phẩm được dự báo giảm 6,0% trong năm 2024, phản ánh nguồn cung dồi dào về ngũ cốc và dầu ăn. Tuy nhiên, thời tiết không ổn định và các hạn chế hoặc gián đoạn thương mại ngày càng tăng có thể đẩy giá cao hơn. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của FAO (FFPI)[11] đạt mức 120,4 điểm trong tháng 5/2024, tăng 1,1 điểm (0,9%) so với tháng 4/2024. Mặc dù tăng nhẹ so với tháng trước, FFPI trong tháng 5/2024 vẫn giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước và thấp hơn 24,9% so với mức đỉnh 160,2 điểm trong tháng 3/2022.
Điều kiện tài chính đã nới lỏng
OECD cho rằng các điều kiện tài chính toàn cầu gần đây đã nới lỏng nhưng lãi suất thực vẫn ở mức cao. Sau khi giảm vào cuối năm 2023, ở hầu hết các nền kinh tế, lợi suất trái phiếu chính phủ dài hạn danh nghĩa đã tăng kể từ đầu năm 2024, phản ánh sự thay đổi kỳ vọng của thị trường về lộ trình tương lai của lãi suất chính sách ở các nền kinh tế phát triển lớn và gia tăng phí bảo hiểm định kỳ. Đồng đô la Mỹ đã tăng giá về mặt danh nghĩa kể từ tháng 01/2024, kéo theo sự mất giá tiền tệ ở các thị trường mới nổi có lạm phát cao.
Tương tự, WB cho rằng các điều kiện tài chính toàn cầu đã dịu bớt kể từ năm 2023. Ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ giảm dần lãi suất chính sách trong năm nay, nhưng mức lãi suất thực tế vẫn sẽ được cho là lực cản đối với hoạt động kinh tế, mặc dù đang giảm. Các điều kiện tài chính của các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi cũng được nới lỏng trong Quý I/2024, phản ánh tâm lý nhà đầu tư toàn cầu được cải thiện và việc cắt giảm lãi suất chính sách đang diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Theo UN, trong 4 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức thấp và một số lĩnh vực đang thiếu hụt lao động trầm trọng. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ thất nghiệp dao động quanh mức 3,8%, cao hơn mức thấp lịch sử 3,4% trong tháng 4/2023. Ở châu Âu, mặc dù tăng trưởng kinh tế chậm lại trong Quý I/2024, việc làm vẫn ở mức cao do các công ty chọn cách giữ chân người lao động để tránh chi phí thuê lại hoặc đào tạo nghề.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)[12] điều chỉnh dự báo về tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2024, ở mức 4,9%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo 5,2% trong tháng 11/2023. Điều chỉnh này chủ yếu xuất phát từ tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn dự kiến ở Trung Quốc, Ấn Độ và các nước có thu nhập cao. Tỷ lệ thất nghiệp 4,9% đồng nghĩa có 183 triệu người thất nghiệp vào năm 2024.
Ước tính mới nhất về khoảng cách việc làm cho thấy 402 triệu người không có việc làm nhưng muốn làm việc vào năm 2024. Trong đó, 183 triệu người thất nghiệp, 137 triệu người nằm trong lực lượng lao động tiềm năng và 82 triệu người đang trong độ tuổi lao động, nhưng không mong muốn tìm việc. Ước tính của ILO cho thấy thị trường lao động toàn cầu vẫn thiếu hụt việc làm đáng kể.
3. Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới
Rủi ro đối với triển vọng kinh tế toàn cầu tiếp tục theo hướng giảm tăng trưởng trong bối cảnh bất ổn tăng cao. WB chỉ ra năm nhân tố rủi ro chính làm giảm triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới, gồm:
Thứ nhất, gia tăng xung đột vũ trang và rủi ro địa chính trị.
Rủi ro liên quan đến xung đột vũ trang đã tăng mạnh do xung đột đang diễn ra ở Trung Đông, các cuộc tấn công vào tàu thuyền ở Biển Đỏ, tình trạng an ninh suy giảm rõ rệt ở các khu vực châu Phi cận Sahara và xung đột đang diễn ra tại U-crai-na. Nếu xung đột ở Trung Đông gia tăng, nguồn cung dầu có thể bị gián đoạn đáng kể và giá hàng hóa sẽ tăng đột biến, có khả năng làm suy yếu các nỗ lực đưa lạm phát trở lại mục tiêu trên toàn cầu. Cuộc xung đột Nga – U-crai-na sẽ tiếp tục gây rủi ro cho thị trường hàng hóa cũng như an ninh khu vực. Sự kết hợp của nhiều cuộc xung đột vũ trang và tác động dây chuyền có nguy cơ làm trầm trọng thêm sự bất ổn về môi trường địa chính trị, cản trở đầu tư, làm suy giảm tâm lý của cả người tiêu dùng và doanh nghiệp, đồng thời làm tăng biến động tài chính.
Thứ hai, sự phân mảnh và không chắc chắn về chính sách thương mại.
Gia tăng các hạn chế thương mại sẽ khiến triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy giảm đáng kể, làm chuyển hướng thương mại khỏi nhà cung cấp có chi phí thấp nhất, dẫn đến sự gián đoạn đối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng rất tốn kém và có thể dẫn đến giảm phúc lợi khi các công ty dành nguồn lực để tìm kiếm, thay thế nhà cung cấp. Sự bất ổn ngày càng tăng trong chính sách thương mại và sự suy yếu hơn nữa của hệ thống thương mại đa phương có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong ngắn hạn, sự không chắc chắn về gia tăng chính sách thương mại có thể làm chậm hoạt động đầu tư kinh doanh ở các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi. Về lâu dài, chuỗi cung ứng kém hiệu quả có thể làm giảm lợi nhuận trên vốn, gây trở ngại cho tăng trưởng năng suất.
Thứ ba, lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.
Lạm phát dai dẳng và lãi suất chính sách cao hơn ở Hoa Kỳ và các nền kinh tế phát triển khác sẽ đè nặng lên tăng trưởng toàn cầu. Cùng với chi phí đi vay tăng cao, lạm phát cao ở các nền kinh tế phát triển sẽ làm giảm thu nhập thực tế và chi tiêu của người tiêu dùng. Nhiều ngân hàng trung ương tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi cũng có thể trì hoãn hoặc làm chậm quá trình nới lỏng tiền tệ, một phần để ngăn chặn rủi ro lạm phát có thể xảy ra do đồng tiền mất giá. Theo đó, tăng trưởng toàn cầu chậm lại do sự kết hợp của các điều kiện tài chính thắt chặt hơn và mức tăng thu nhập thực tế yếu hơn. Ngoài ra, nhu cầu bên ngoài yếu hơn sẽ làm giảm tăng trưởng xuất khẩu ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi.
Thứ tư, tăng trưởng yếu hơn dự kiến ở Trung Quốc.
Tăng trưởng yếu hơn ở Trung Quốc có thể có tác động lan tỏa bất lợi thông qua thị trường hàng hóa và thương mại toàn cầu, ảnh hưởng đến sự phục hồi thương mại toàn cầu, làm giảm hoạt động ở các nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại. Mặc dù khả năng hội nhập của Trung Quốc vào thị trường tài chính toàn cầu vẫn còn hạn chế, nhưng sự suy giảm mạnh này có thể tạo ra tác động lan tỏa tài chính bất lợi. Trong bối cảnh nợ công và tư nhân ở mức cao và ngày càng tăng, tốc độ tăng trưởng chậm hơn ở Trung Quốc và những lo ngại về rủi ro tài chính gia tăng có thể khiến các cơ quan chức năng phải kiềm chế tăng trưởng tín dụng và chuyển hướng sang củng cố tài chính.
Thứ năm, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn với tác động ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai đã tăng lên theo thời gian và dự kiến sẽ còn tăng hơn nữa do biến đổi khí hậu, gây rủi ro đối với tăng trưởng toàn cầu. Các hiện tượng như El Niño và La Niña đang diễn ra có nguy cơ tác động tiêu cực đến sản lượng nông nghiệp, tạo áp lực lên giá trong thời gian tới. Những hiện tượng thời tiết này có thể trở nên cực đoan hơn và tăng tần suất trong bối cảnh phát thải khí nhà kính ngày càng tăng sẽ gây thiệt hại về lâu dài và gia tăng lây lan dịch bệnh.
II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ
IMF nhận định tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ dự báo đạt 2,7% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, phản ánh kết quả tăng trưởng mạnh hơn dự kiến từ Quý IV/2023 và động lực tăng trưởng tiếp tục mạnh mẽ trong năm 2024.
Theo OECD, tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ năm 2024 dự báo đạt 2,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với tăng trưởng năm 2023, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 02/2024. Nới lỏng chính sách tiền tệ, chi tiêu hộ gia đình được cải thiện và khả năng phục hồi của thị trường lao động sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng Hoa Kỳ nửa cuối năm 2024. Đây là lý do OECD điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Hoa Kỳ.
WB điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ từ mức 1,6% trong tháng 01/2024 lên 2,5%, bằng với mức tăng trưởng của năm 2023 trước những tín hiệu tích cực của chỉ số niềm tin người tiêu dùng.
UN dự báo trong báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới giữa năm 2024 nền kinh tế Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng 2,3% trong năm 2024, điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024. Tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp là những yếu tố tích cực khiến UN đưa ra đánh giá lạc quan về tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2024 so với dự báo trước đó, tuy nhiên vẫn thấp hơn mức tăng trưởng 2,5% của năm 2023.
ADB nhận định về tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ ngược với xu hướng của các tổ chức IMF, OECD, WB và UN. Theo đó, ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ chỉ đạt 1,9% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 12/2023. Điều kiện thị trường lao động và tăng trưởng tiêu dùng chậm lại là những nguyên nhân chính khiến ADB hạ mức dự báo tăng trưởng năm 2024 của Hoa Kỳ.
Trading Economics[13] dự báo tăng trưởng GDP Quý II/2024 của Hoa Kỳ tăng 1,5% so với quý trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2023.
Theo Trading Economics, chỉ số PMI tổng hợp Hoa Kỳ trong tháng 6/2024 đạt 54,6 điểm, tăng 0,1 điểm so với mức 54,5 trong tháng 5/2024 và cao nhất kể từ tháng 4/2022. Lĩnh vực dịch vụ cải thiện nhiều nhất, với PMI dịch vụ đạt 55,1 điểm (tăng so với mức 54,8 điểm trong tháng 5/2024). PMI chế biến chế tạo đạt 51,7 điểm (giảm so với mức 53,0 điểm trong tháng 5/2024), nhưng vẫn đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Hình 2. Đánh giá tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Như vậy, trừ ADB, các tổ chức quốc tế (IMF, OECD, WB và UN) đều điều chỉnh tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Hoa Kỳ so với dự báo trước đó. IMF, OECD và WB dự báo tăng trưởng năm 2024 của Hoa Kỳ cao hơn hoặc bằng với mức 2,5% của năm 2023. Trong khi đó, UN và ADB dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2024 thấp hơn mức tăng của năm 2023, lần lượt đạt 2,3% và 1,9%.
IMF nhận định tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro năm 2024 sẽ phục hồi từ mức tăng trưởng thấp 0,4% của năm 2023 lên mức 0,8% năm 2024, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 do tốc độ phục hồi kinh tế Đức chậm trong bối cảnh niềm tin người tiêu dùng Đức liên tục giảm.
UN dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2024 đạt 0,8%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 0,4% của năm 2023.
OECD nhận định khu vực đồng Euro kết thúc năm 2023 trong suy thoái, chỉ tăng trưởng 0,5%. Tuy nhiên, tác động từ cú sốc về giá năng lượng tăng đột biến năm 2022 giảm dần, thu nhập thực tế hộ gia đình phục hồi, thị trường lao động thắt chặt và lãi suất chính sách giảm là những động lực giúp nền kinh tế khu vực đồng Euro dần phục hồi. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực này đạt 0,7% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 02/2024 và cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng của năm 2023.
WB giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2024, ở mức 0,7% so với dự báo vào tháng 01/2024. Hoạt động dịch vụ phục hồi trong những tháng đầu năm 2024 đi kèm với phục hồi thu nhập thực tế, tăng chi tiêu dùng, lạm phát giảm và tiền lương tiếp tục tăng là những nhân tố tích cực khiến WB tiếp tục có nhận định khả quan về tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro trong năm 2024. Theo đó, dự báo tăng trưởng khu vực đồng Euro năm 2024 cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023.
Theo ADB, nhu cầu tiêu dùng nội khối tăng kết hợp với môi trường kinh doanh bên ngoài thuận lợi là những yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro lên mức 0,7% năm 2024, tăng 0,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 0,5% của năm 2023.
Theo Trading Economics, GDP Quý II/2024 của khu vực đồng Euro dự báo tăng 0,3% so với Quý I/2024 và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số PMI tổng hợp của khu vực đồng Euro trong tháng 6/2024 đạt 50,8 điểm, giảm 1,4 điểm so với mức 52,2 điểm của tháng 5/2024, nhưng vẫn cho thấy sự mở rộng trong hoạt động kinh tế tư nhân khi tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ đạt 52,6 điểm trong tháng 6/2024, đủ để bù đắp cho sụt giảm của lĩnh vực chế biến chế tạo (45,6 điểm tháng 6/2024 so với 47,3 điểm trong tháng 5/2024).
Hình 3. Đánh giá tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: IMF, UN, OECD, WB, và ADB
Như vậy, các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro dự báo sẽ phục hồi từ mức tăng trưởng thấp, khoảng 0,5% năm 2023 lên mức 0,7% – 0,8% năm 2024.
UN giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản năm 2024, ở mức 1,2% như đã đưa ra trong dự báo vào tháng 01/2024. Mặc dù nền kinh tế có những dấu hiệu thoát khỏi tình trạng giảm phát khi Ngân hàng trung ương Nhật Bản lần đầu tiên tăng lãi suất chính sách kể từ năm 2007, lợi nhuận doanh nghiệp và niềm tin kinh doanh cải thiện nhưng tiêu dùng tư nhân vẫn yếu do phục hồi niềm tin người tiêu dùng chậm trong bối cảnh tiền lương danh nghĩa tăng trưởng chậm là nguyên nhân khiến UN nhận định không mấy khả quan về tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản.
IMF dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản giảm từ mức 1,9% năm 2023 xuống còn 0,9% năm 2024, giữ nguyên so với dự báo đưa ra trong tháng 01/2024.
Theo WB, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản dự báo chỉ đạt 0,7% năm 2024, điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 01/2024 và thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 1,9% của năm 2023. Tiêu dùng yếu, xuất khẩu chậm lại, nhu cầu du lịch không tăng là những nguyên nhân khiến WB hạ dự báo tăng trưởng của Nhật Bản.
ADB dự báo tăng trưởng GDP Nhật Bản giảm xuống còn 0,6% năm 2024 so với mức tăng trưởng 1,9% năm 2023 do xuất khẩu và đầu tư yếu cũng như quá trình phục hồi sau đại dịch đang yếu dần. ADB giữ nguyên mức dự báo tăng trưởng đưa ra trong tháng 12/2023 cho quốc gia này.
OECD dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản giảm từ mức 1,9% năm 2023 xuống còn 0,5% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024 khi các chính sách kinh tế vĩ mô bắt đầu được thắt chặt và chính phủ dừng chính sách trợ cấp sau đại dịch.
Trading Economics dự báo GDP Quý II/2024 của nền kinh tế Nhật Bản tăng 0,8% so với quý trước và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số PMI tổng hợp tháng 6/2024 của Nhật Bản đạt 50,0 điểm, giảm 2,6 điểm so với mức 52,6 điểm trong tháng 5/2024 do hoạt động dịch vụ giảm (PMI dịch vụ đạt 49,8 điểm, giảm mạnh so với mức 53,8 điểm trong tháng 5/2024), nhưng được bù đắp nhờ lĩnh vực chế biến, chế tạo tăng (PMI chế biến chế tạo đạt 50,5 điểm, tăng 0,6 điểm so với mức 49,9 điểm trong tháng 5/2024).
Hình 4. Đánh giá tăng trưởng của Nhật Bản năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: UN, IMF, WB, ADB và OECD
Theo Hình trên, hầu hết các tổ chức quốc tế đều dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2024 thấp hơn từ 1,0 đến 1,4 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng năm 2023, chỉ đạt từ 0,5% – 0,9% trong năm 2024 so với mức 1,9% của năm 2023. Riêng UN nhận định khả quan hơn khi cho rằng năm 2024 tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản chỉ thấp hơn 0,7 điểm phần trăm so với năm 2023 và sẽ tăng trưởng ở mức 1,2%.
OECD nhận định tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 4,9% năm 2024, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 02/2024, phản ánh tác động tích cực của các chính sách kinh tế vĩ mô, gồm gói kích thích tài chính quy mô lớn trong năm 2024 và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng như nhu cầu bên ngoài tăng.
ADB nhận định tiêu dùng tư nhân của nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phục hồi trong năm 2024 khi thị trường lao động và thu nhập hộ gia đình được cải thiện. Nhu cầu trong nước và bên ngoài về công nghệ các-bon thấp, gồm xe điện, pin và năng lượng tái tạo, tiếp tục tăng mạnh. Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ chính sách cho các ngành công nghệ bán dẫn và AI trong năm 2024. Đầu tư cơ sở hạ tầng và các dự án công cộng giúp tăng cường hoạt động xây dựng và hỗ trợ đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, đầu tư bất động sản sẽ tiếp tục chậm lại do nhu cầu nhà ở trì trệ và hạn chế về tài chính đối với các nhà phát triển bất động sản cũng như tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ ở mức vừa phải. Do đó, ADB dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc năm 2024 đạt 4,8%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2023, nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% của năm 2023.
Theo UN, tăng trưởng GDP của nền kinh tế Trung Quốc dự báo đạt 4,8% năm 2024, tăng nhẹ 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024 nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% của năm 2023. Những thách thức trong lĩnh vực bất động sản như hoạt động đầu tư và bán bất động sản vẫn tiếp tục sụt giảm trong Quý I/2024, căng thẳng thương mại kéo dài làm hạn chế nhu cầu bên ngoài đối với hàng hóa Trung Quốc là những nguyên nhân chính khiến dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2024 thấp hơn năm 2023.
Theo WB, tốc độ tăng trưởng đầu tư tổng thể của Trung Quốc vẫn ở mức thấp, đầu tư vào bất động sản sụt giảm do suy thoái bất động sản tiếp tục bước sang năm thứ ba, niềm tin người tiêu dùng yếu, tiêu dùng trong nước ở mức thấp, với mức tăng trưởng doanh số bán lẻ dưới mức trung bình trước đại dịch, giá sản xuất tiếp tục giảm. Để thúc đẩy nhu cầu, Trung Quốc đã công bố các biện pháp chi tiêu bổ sung, gồm cả các dự án cơ sở hạ tầng, đồng thời Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng đã cắt giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đóng góp tích cực từ xuất khẩu ròng đã bù đắp cho nhu cầu trong nước đang suy giảm giúp cho tăng trưởng của Trung Quốc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm 2024. Theo đó, WB điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2024, đạt 4,8% năm 2024, nhưng vẫn thấp hơn mức 5,2% trong năm 2023.
Trong Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế thế giới tháng 4/2024, IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong tháng 01/2024, ở mức 4,6%, thấp hơn 0,6 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 5,2% của năm 2023 do tác động tích cực của các nhân tố thúc đẩy tiêu dùng và kích thích tài chính sau đại dịch đang giảm dần đi kèm với những rủi ro của thị trường bất động sản.
Theo Trading Economics, GDP Quý II/2024 của nền kinh tế Trung Quốc dự báo tăng 0,8% so với Quý I/2024 và tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023.
Chỉ số PMI tổng hợp của Trung Quốc trong tháng 5/2024 đạt 54,1 điểm, tăng 1,3 điểm so với chỉ số của tháng trước (52,8 điểm), phản ánh tháng tăng trưởng thứ 7 liên tiếp của hoạt động khu vực tư nhân do giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến chế tạo và dịch vụ tăng mạnh.
Hình 5. Đánh giá tăng trưởng của Trung Quốc năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 theo các tổ chức quốc tế
Nguồn: OECD, ADB, UN, WB và IMF
Như vậy, các tổ chức quốc tế cùng nhận định tăng trưởng của Trung Quốc năm 2024 sẽ chậm lại, đạt khoảng 4,6% – 4,9%, thấp hơn mức 5,2% của năm 2023.
Theo báo cáo “Triển vọng phát triển châu Á” của ADB, tăng trưởng khu vực Đông Nam Á dự báo đạt 4,6% trong năm 2024 do nhu cầu nội địa mạnh mẽ và du lịch tiếp tục phục hồi. In-đô-nê-xi-a sẽ duy trì mức tăng trưởng 5,0% trong năm 2024. Ngoài nhu cầu trong nước mạnh mẽ, thay đổi trong xuất khẩu hàng hóa bắt đầu từ giữa năm 2024 sẽ thúc đẩy tăng trưởng ở Thái Lan (2,6%), Ma-lai-xi-a (4,5%), Việt Nam (6,0%), và Phi-li-pin (6,0%).
Hình 6. Dự báo tăng trưởng năm 2024 của các quốc gia ASEAN
Theo Hình trên, tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam và Phi-li-pin được ADB nhận định sẽ dẫn đầu khu vực Đông Nam Á, ở mức 6,0%. Tuy nhiên, theo dự báo của WB, Cam-pu-chia và Phi-li-pin là hai quốc gia được dự báo có mức tăng trưởng cao nhất, đạt 5,8%.
WB nhận định khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, không bao gồm Trung Quốc, đạt mức tăng trưởng 4,6% trong năm 2024 do thương mại hàng hóa toàn cầu tăng mang lại lợi ích cho xuất khẩu và hoạt động công nghiệp, bù đắp những tác động của tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc. Hoạt động tăng tốc dự kiến sẽ diễn ra mạnh mẽ ở một số nền kinh tế định hướng xuất khẩu, bao gồm Thái Lan và Việt Nam. Du lịch toàn cầu dần phục hồi sau đại dịch sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ ở một số nền kinh tế, trong đó có Cam-pu-chia và Thái Lan.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý II/2024 so với cùng kỳ năm trước của Phi-li-pin đạt 6,1%; In-đô-nê-xi-a 4,5%; Ma-lai-xi-a 3,5%; Thái Lan 2,4%, Xin-ga-po 2,1%. Tăng trưởng Quý II/2024 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là 1,2%; 3,4%; 0,5%; 0,7% và 0,9%.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam dự báo đạt 6,0% trong năm 2024 khi nhu cầu toàn cầu được cải thiện và số lượng khách du lịch tăng sẽ hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu, mặc dù các sự kiện ở Biển Đỏ đang làm tăng chi phí vận tải và có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi của xuất khẩu. Các kế hoạch đầu tư công và thu nhập thực tế của hộ gia đình ngày càng tăng sẽ hỗ trợ nhu cầu trong nước tăng lên. Khi các hoạt động tăng tốc, lạm phát sẽ đạt 3,9% vào năm 2024. Các chính sách tài chính và tiền tệ mở rộng sẽ hỗ trợ nhu cầu trong nước. Nguy cơ chậm trễ trong giải ngân đầu tư công có thể được giải quyết bằng cách đơn giản hóa các thủ tục và quy định. Những cải thiện về chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống bảo trợ xã hội toàn diện hơn và cải cách tài chính có thể giúp Việt Nam tăng khả năng chống chịu trước các cú sốc và hỗ trợ thực hiện cải cách thành công. Việc tăng tốc triển khai các nguồn năng lượng tái tạo trong ngành điện có thể giúp tăng trưởng bền vững hơn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì lập trường chính sách tiền tệ phù hợp kể từ khi hạ lãi suất tái cấp vốn từ 6,0% xuống 4,5% và lãi suất chiết khấu từ 4,5% xuống 3,0% trong năm 2023. Lạm phát ở mức 4,0% trong tháng 3/2024, hiện đang ở ngưỡng dưới của mục tiêu 4,0% – 4,5% cho năm 2024. Chính phủ đang hỗ trợ các hộ gia đình và doanh nghiệp thông qua việc tạm thời giảm thuế suất VAT từ 10% xuống 8% cho đến giữa năm 2024, đồng thời cắt giảm và hoãn thuế tạm thời, bao gồm cắt giảm thuế môi trường và phí đăng ký ô tô.
ADB dự báo kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 6,0% trong năm 2024. Sự phục hồi tăng trưởng trong các ngành sản xuất, dịch vụ hướng tới xuất khẩu và nông nghiệp ổn định sẽ giúp nền kinh tế phục hồi. Dòng vốn FDI và kiều hối tích cực, thặng dư thương mại bền vững, chính sách hỗ trợ tài chính và chương trình đầu tư công cũng sẽ kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, những bất ổn địa chính trị toàn cầu có thể cản trở tăng trưởng. Các biện pháp hỗ trợ tăng trưởng và khung pháp lý liên quan đến đất đai được cải thiện đi kèm với việc giảm lãi suất gần đây sẽ hỗ trợ lĩnh vực xây dựng. Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) cắt giảm lãi suất trong năm 2024 sẽ giúp giảm bớt áp lực lên tiền Việt Nam đồng. Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01/7/2024 cũng sẽ giúp giám sát tốt hơn hoạt động cho vay. Năm 2024, đầu tư công sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ nền kinh tế. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách khác nhau để đẩy nhanh giải ngân đầu tư công và nâng cao hiệu quả thực thi.
Trong họp báo về Triển vọng kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày 30/4/2024, ông Thomas Helbling, Phó Vụ trưởng Vụ châu Á – Thái Bình Dương của IMF[14] nhận định sau những khó khăn của năm 2023, các yếu tố kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ dần được cải thiện trong năm 2024. Theo đó, IMF nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 5,8%.
Một số rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng của Việt Nam gồm sự phân mảnh kinh tế toàn cầu ngày càng tăng, rủi ro về ổn định tài chính, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực xây dựng.
IMF nhận định Việt Nam cần thắt chặt thêm chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ trước diễn biến lạm phát và khuyến nghị Việt Nam cần tiếp tục thực hiện cải cách cơ cấu, thu hẹp khoảng cách giáo dục, khoảng cách cơ sở hạ tầng, cải thiện khả năng kết nối để thúc đẩy tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong tương lai.
Theo báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5/2024, WB nhận định sản xuất công nghiệp tăng mạnh nhờ xuất khẩu cải thiện trong tháng 5/2024. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 5/2024 tăng 2,6% so với tháng trước. Trong tháng 5/2024, doanh số bán lẻ tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh trong tháng 5/2024. So với cùng kỳ năm 2023, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, lần lượt là 15,8% và 29,9% trong tháng 5/2024. FDI tiếp tục tăng ổn định khi FDI đăng ký đạt 11,07 tỷ USD tính đến cuối tháng 5/2024, tăng 2,0% so với cùng kỳ năm ngoái. Giải ngân FDI lũy kế đạt 8,3 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2023. Phần lớn vốn FDI tiếp tục tập trung vào các ngành chế biến chế tạo và bất động sản. Trong khi lạm phát chung không thay đổi, lạm phát cơ bản giảm nhẹ. CPI tháng 5/2024 tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Lãi suất bình quân liên ngân hàng qua đêm duy trì ở mức cao trong tháng 5/2024, phản ánh chính sách tiếp tục thắt chặt thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước. Chính phủ áp dụng các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế trong nước, gồm kéo dài thời gian giảm thuế VAT, giảm lãi suất cho vay và đẩy sớm ngày bắt đầu có hiệu lực thi hành của Luật Bất động sản sửa đổi lên 6 tháng (tức từ ngày 01/7/2024). Theo đó, WB dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 5,5%, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 01/2024.
Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý II/2024 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 5,1%.
Chỉ số PMI ngành chế biến, chế tạo của Việt Nam đạt 50,3 trong tháng 5/2024, không thay đổi so với tháng trước, cho thấy các điều kiện kinh doanh vẫn đang cải thiện kể từ tháng 4/2024. Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng mạnh trong tháng 5/2024 khi công ty thu hút được khách hàng mới.
Hình 7. Đánh giá tăng trưởng năm 2023 và dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam theo các tổ chức quốc tế
Theo Hình trên, các tổ chức quốc tế đều nhận định tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 cao hơn năm 2023 từ 0,5-1,0 điểm phần trăm. Trong đó, OECD và ADB có nhận định khả quan nhất khi cùng dự báo kinh tế Việt Nam năm 2024 tăng trưởng 6,0%, cao hơn mức dự báo 5,8% của IMF và 5,5% của WB.
[1] Báo cáo được cập nhật đến ngày 27/6/2024.
[2] WB (Tháng 06/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu”, https://www.worldbank.org/en/publication/global-economic-prospects, truy cập ngày 19/6/2024.
[3] FR (Tháng 6/2024), “Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2024”, https://www.fitchratings.com/research/sovereigns/global-economic-outlook-june-2024-17-06-2024, truy cập ngày 24/6/2024.
[4] UN (Tháng 05/2024), “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới – cập nhật giữa năm 2024”, https://desapublications.un.org/publications/world-economic-situation-and-prospects-mid-2024?_ga=2.5323955.1851850669.1718828290-586668022.1718828290, truy cập ngày 19/6/2024.
[5] OECD (Tháng 06/2024), “Báo cáo Triển vọng kinh tế OECD: Sự phục hồi đang diễn ra”, https://www.oecd.org/economic-outlook/may-2024/, truy cập ngày 18/6/2024.
[6] EU (Tháng 02/2023), “Dự báo kinh tế châu Âu mùa đông 2024: Trì hoãn phục hồi tăng trưởng trong bối cảnh nới lỏng lạm phát”, https://economy-finance.ec.europa.eu/document/download/c63e0da2-c6d6-4d13-8dcb-646b0d1927a4_en?filename=ip286_en.pdf, truy cập ngày 18/6/2024.
[7] IMF (Tháng 04/2024), “Triển vọng kinh tế thế giới – Vững chắc nhưng chậm: Khả năng phục hồi khác nhau giữa các quốc gia”, https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2024/04/16/world-economic-outlook-april-2024, truy cập ngày 18/6/2024.
[8] ADB (Tháng 04/2024), “Triển vọng phát triển châu Á”, https://www.adb.org/publications/series/asian-development-outlook, truy cập ngày 18/6/2024.
[9] Không truy cập được số liệu chính thức năm 2023 của FR.
[10] WTO (Tháng 04/2024), “Triển vọng thương mại toàn cầu và thống kê”, https://www.wto.org/english/res_e/publications_e/trade_outlook24_e.htm, truy cập ngày 18/6/2024.
[11] FAO (Tháng 06/2024), “Chỉ số giá lương thực thực phẩm”, https://www.fao.org/worldfoodsituation/foodpricesindex/en/, truy cập ngày 18/6/2024.
[12] ILO (Tháng 05/2024), “Triển vọng việc làm và xã hội Thế giới: Cập nhật tháng 05/2024”. https://www.ilo.org/publications/flagship-reports/world-employment-and-social-outlook-may-2024-update, truy cập ngày 18/6/2024.
[13] Trading Economics (Tháng 6/2024), https://tradingeconomics.com/united-states/forecast truy cập ngày 21/6/2024.
[14] IMF (tháng 4/2024), Họp báo về Triển vọng kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày 30/4/2024, https://www.imf.org/en/videos/view?vid=6352042218112, truy cập ngày 24/6/2024.