Tiền giấy 100 đô la Mỹ ($100) là một loại tiền giấy của tiền tệ Hoa Kỳ. Phiên bản tiền giấy 100 đô la được phát hành vào năm 1862 và phiên bản mới nhất được ra mắt vào năm 1914, bên cạnh các mệnh giá khác. Mặt trước in chân dung Benjamin Franklin, một chính trị gia, một nhà khoa học, một nhà văn, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu, một trong những người khai sinh Hoa Kỳ [2], nên nó có tên khác như "Bens," "Benjamins," hoặc "Franklins,". Ở mặt trái của tờ tiền là hình ảnh của Hội trường Độc lập ở Philadelphia, xuất hiện từ năm 1928.[2]. Đây là mệnh giá lớn nhất đã được in và lưu hành kể từ ngày 13 tháng 7 năm 1969, khi các mệnh giá 500 đô la, 1.000 đô la, 5.000 đô la và 10.000 đô la ngừng phát hành [3]
Tiền giấy 100 đô la Mỹ ($100) là một loại tiền giấy của tiền tệ Hoa Kỳ. Phiên bản tiền giấy 100 đô la được phát hành vào năm 1862 và phiên bản mới nhất được ra mắt vào năm 1914, bên cạnh các mệnh giá khác. Mặt trước in chân dung Benjamin Franklin, một chính trị gia, một nhà khoa học, một nhà văn, một thợ in, một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu, một trong những người khai sinh Hoa Kỳ [2], nên nó có tên khác như "Bens," "Benjamins," hoặc "Franklins,". Ở mặt trái của tờ tiền là hình ảnh của Hội trường Độc lập ở Philadelphia, xuất hiện từ năm 1928.[2]. Đây là mệnh giá lớn nhất đã được in và lưu hành kể từ ngày 13 tháng 7 năm 1969, khi các mệnh giá 500 đô la, 1.000 đô la, 5.000 đô la và 10.000 đô la ngừng phát hành [3]
Tượng miêu tả cảnh vua Clovis rửa tội.
Lúc khởi đầu, Kitô giáo là một tôn giáo thống nhất. Nhưng rồi vào giai đoạn đầu Trung cổ, sự tách ly giữa Kitô giáo ở phía Đông và phía Tây châu Âu dần dần ngày càng được mở rộng ra. Ở phía Tây, địa vị của Tổng giám mục thành Rome ngày càng cao và sau này họ xưng là Giáo hoàng. Giáo hội ở Rome được xem như một tổ chức chính trị đặc biệt và có tiếng nói quyết định trong nhiều sự kiện ở Tây Âu. Ở phía Đông, Tổng giám mục thành Constantinople là người đứng đầu giáo hội, nhưng khác với Tây Âu là vẫn phải chịu sự chỉ huy của hoàng đế Byzantine.
Đến thế kỷ 11, hai bên mâu thuẫn gay gắt và cuối cùng đi đến việc khai trừ giáo tịch lẫn nhau. Đó gọi là cuộc Đại ly giáo Đông Tây. Từ đó ở phương Tây gọi là giáo hội Công giáo Rôma, còn ở phương Đông là giáo hội Chính thống theo Chính thống giáo Đông phương. Mặc dù không thật sự khác nhau nhiều lắm về niềm tin, nghi thức, v.v... nhưng hai giáo hội này hoàn toàn độc lập với nhau. Ngoài ra còn có đạo Thiên chúa Celtic ở đảo Anh là một nhánh độc lập với hai giáo hội trên.
Ở Tây Âu, nhà thờ Thiên chúa giáo là tổ chức duy nhất từ thời La Mã hầu như không bị người man tộc xâm phạm sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Chính vì vậy mà chỉ ở những cơ sở tôn giáo này mới còn giữ lại được các thành tựu của nền văn hóa cổ đại. Giai đoạn đầu Trung cổ chứng kiến sự cải đạo mạnh mẽ của các man tộc, như đã đề cập rải rác ở các phần trên. Khi bắt đầu giai đoạn giữa Trung cổ thì chỉ còn bán đảo Scandinavia, vùng Baltic, và một số vùng Finno-Ugric là chưa được cải đạo.
Ðế chế La Mã từng có lãnh thổ rất rộng lớn kéo dài từ châu Âu sang Bắc Phi, đến tận vùng Tiểu Á và Trung Đông. Biên giới phía Bắc là sông Rhine và sông Danube, giáp với các bộ tộc có nguồn gốc từ bán đảo Scandinavia, thường được gọi là các dân tộc German. Ðế chế La Mã hưng thịnh trong nhiều thế kỷ, đem lại sự ổn định, thịnh vượng và trật tự cho thế giới phương Tây. Thế nhưng từ thế kỷ thứ 3, nó đã từng bước suy yếu do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Năm 395, Đế chế La Mã phân chia lần cuối cùng thành Đế chế Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã. Từ đó trở đi, các vị hoàng đế ở Tây La Mã hầu như chỉ còn là bù nhìn. Quyền hành thực sự ở Tây La Mã rơi vào tay những người thống lĩnh quân đội. Vốn ít tài nguyên hơn Đông La Mã, Tây La Mã cũng suy sụp nhanh chóng về mặt kinh tế. Ở bên ngoài, sự yếu kém của các quân đoàn La Mã đã khiến họ không thể kháng cự được những cuộc xâm lăng của các man tộc. Các tộc người German từng bước tràn về phía Tây và xâm nhập lãnh thổ của La Mã. Năm 476, viên tướng người German Odoacer nổi dậy làm chính biến lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là Romulus Augustus. Đế chế Tây La Mã diệt vong ở đây. Về danh nghĩa thì Odoacer là chư hầu của Đông La Mã nhưng thực tế thì chính ông mới là người trị vì bán đảo Italy.
Trên lãnh thổ cũ của Đế chế La Mã ở Tây Âu và Bắc Phi, các vương quốc của người German dần dần được thành lập, bao gồm vương quốc của người Visigoth, Ostrogoth, Vandal, Frank, Lombard, Anglo-Saxon, Burgundy, v.v...
Năm 410, người Visigoth do Alaric I dẫn đầu đã đánh chiếm và cướp phá thành Rome. Sau đó, dưới thời các hậu duệ của Alaric, người Visigoth tới bán đảo Iberia và thiết lập một vương quốc cho riêng mình tồn tại 200 năm. Ở phía nam, người Vandal đánh chiếm Carthage vào năm 439 và xây dựng một hạm đội hùng mạnh để quấy nhiễu vùng biển phía Tây và Nam của Địa Trung Hải. Năm 455, người Vandal cũng tiến vào cướp phá Rome. Vương quốc Vandal tồn tại gần một thế kỷ trước khi bị hoàng đế Đông La Mã thôn tính vào năm 534. Năm 443, vương quốc của người Burgundy được thành lập ở khu vực xung quanh thành phố Lyon ngày nay, và tới năm 534 thì bị người Frank tiêu diệt. Ở đảo Anh, từ giữa thế kỷ thứ 5, người Anglo-Saxon đã nhân cơ hội La Mã rút quân để vượt biển tới đây.
Sau khi Đế chế Tây La Mã chính thức sụp đổ vào năm 476, có thêm ba vương quốc mới nữa ra đời là vương quốc Ostrogoth, vương quốc Lombard, và vương quốc Frank. Năm 493, vua Ostrogoth là Theodoric Đại đế đánh bại Odoacer và chiếm lấy Ravenna, nhưng sự thống trị của họ cũng chỉ được tới năm 553 thì bị Đông La Mã xóa sổ. Vào năm 568, người Lombard tiến vào phía Bắc của bán đảo Italy và dựng lên vương quốc Lombard, tồn tại tới thế kỷ 8. Nhìn chung thì các vương quốc của người German trong giai đoạn này đều không duy trì được lâu, chỉ duy nhất vương quốc của người Frank (thành lập từ năm 481) là tồn tại bền vững và có ý nghĩa quan trọng nhất.
Người Goth và Vandal chỉ là hai cái tên đầu tiên trong làn sóng của những người di cư tràn vào Tây Âu. Một số dân tộc di cư chỉ biết gây chiến, cướp phá và khinh thường những giá trị văn hóa La Mã. Những dân tộc khác thì ngưỡng mộ Rome và muốn nối tiếp những truyền thống của nó. Người dân La Mã theo đạo Thiên chúa và đã sống có tổ chức, quy củ từ rất lâu, trong khi những người man tộc thì hầu như chẳng biết gì về các khái niệm như tổ chức thành thị, tiền bạc, hay viết lách. Thế nhưng trong quá trình di cư, người German đã dần dần cải theo đạo Thiên chúa. Những dân tộc German xâm nhập vào Italy, Gaul, và Hispania cũng đều tiếp nhận ngôn ngữ Latinh và tỏ ra tôn trọng những gì còn sót lại của nền văn hóa La Mã. Điều này đã giúp ngôn ngữ Latinh vẫn giữ được vị trí quan trọng cho đến ngày nay.
Nền thương mại, sản xuất, văn hóa, và giáo dục từng một thời vươn xa của Đế chế La Mã giờ đây bị thay thế bởi những sự thống trị cát cứ ở địa phương. Về kinh tế, hàng hóa không còn có thể an toàn vận chuyển đi xa, điều này dẫn đến sự biến mất của các ngành nghề phụ thuộc nhiều vào việc trao đổi buôn bán. Sự sụp đổ của các mối liên kết về mặt kinh tế và xã hội giữa các vùng miền cũng đã đưa tới sự nảy sinh khuynh hướng địa phương hóa. Trên lãnh thổ cũ của La Mã, dân số giảm đi 20% từ năm 400 đến 600. Trong thế kỷ thứ 8, tổng giao dịch thương mại tụt xuống mức thấp nhất kể từ Thời đại đồ đồng. Nền nông nghiệp có hệ thống cũng biến mất và sản lượng nông phẩm sản xuất ra chỉ ở mức đủ sống. Nhiều đất canh tác thậm chí còn bị trở lại thành rừng.
Khi Đế chế Tây La Mã vỡ vụn ra thành hàng loạt vương quốc của người German thì Đế chế Đông La Mã ở Constantinople, vốn giàu có hơn, vẫn tồn tại và dần dần phục hồi được sức mạnh của mình. Sau khi tiếng Hy Lạp thay thế tiếng Latinh như là ngôn ngữ chính thức của Đế chế Đông La Mã, nhiều nhà sử học gọi Đế chế này là "Đế chế Byzantine". Những người ở Tây Âu cho rằng chất "Hy Lạp" của nó nhiều hơn là "La Mã". Mặc dù vậy, những cư dân ở Byzantine luôn tự gọi mình là Romaioi (nghĩa là "người La Mã") để nhấn mạnh rằng mình là sự kế thừa của Đế chế La Mã.
Nhờ vào việc kiểm soát tuyến đường buôn bán giữa châu Âu và phương Đông, Đế chế Byzantine trở thành quốc gia giàu có nhất ở châu Âu. Sử dụng lực lượng quân đội tinh nhuệ kết hợp với chiến thuật ngoại giao khéo léo, Byzantine đã ngăn chặn được những cuộc tấn công của man tộc di cư. Giấc mơ chiếm lại những vùng đất ở Tây Âu đã được hiện thực hóa dưới triều đại Justinian I (527-565), dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi. Dưới sự chỉ huy của danh tướng Belisarius, quân đội Byzantine đã chinh phục vương quốc Vandal ở Bắc Phi và vương quốc Ostrogoth ở Italy. Sau đó, Đế chế Byzantine tiếp tục đánh chiếm một phần lãnh thổ bán đảo Iberia (tỉnh Spania) và giữ vững quyền kiểm soát vùng đất này cho tới thời Hoàng đế Heraclius.
Hoàng đế Justinian không chỉ khôi phục lại những lãnh địa từng thuộc về La Mã mà còn soạn ra bộ luật La Mã có nhiều ảnh hưởng tới các thế hệ sau và xây dựng nhà thờ Hagia Sophia ở kinh đô Constantinople, một công trình kiến trúc tinh xảo và vĩ đại nhất thời bấy giờ. Thế nhưng một trận dịch bệnh lớn (thường gọi là "trận dịch Justinian") đã tàn phá triều đại của ông và giết hại 40% dân số ở kinh đô Constantinople. Người ta ước tính rằng trận dịch này đã cướp đi sinh mạng của tổng cộng 100 triệu người trên toàn thế giới.
Sau thời Hoàng đế Justinian, lãnh thổ của Đế chế Byzantine bị thu hẹp do những cuộc chiến với nhiều thế lực từ bên ngoài. Những vị Hoàng đế kế vị của ông là Maurice và Heraclius phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người Slav và người Avar. Sau những cuộc tàn phá của các bộ tộc Slav và Avar thì dân số ở bán đảo Balkan cũng trở nên thưa thớt hơn. Vào năm 626, thành phố lớn nhất châu Âu thời bấy giờ là Constantinople phải chống lại cuộc vây hãm của liên quân Avar và Sassanid (Đế quốc Ba Tư). Trong những thập niên sau đó, Hoàng đế Heraclius dồn toàn lực quyết đấu với Đế chế Sassanid trong một cuộc chiến mang màu sắc của một cuộc thánh chiến. Cuối cùng ông đã thành công khi chiếm được kinh đô của họ, qua đó đã đánh một đòn hủy diệt vào cường quốc đã từng đối đầu với Đế chế La Mã hàng thế kỷ qua (đây cũng được xem là cuộc chiến La Mã-Ba Tư cuối cùng trong lịch sử). Nhưng rồi cũng trong triều đại của mình, Hoàng đế Heraclius chứng kiến những thành tựu vẻ vang của ông đổ sông đổ bể khi người Ả Rập lần lượt chinh phục các xứ Syria, Palestine, Ai Cập và Bắc Phi, đi kèm với nó là quá trình truyền bá Hồi giáo đến tất cả các vùng nói trên.
Sau hai cuộc vây hãm Constantinople không thành của người Ả Rập vào các năm 674-677 và 717, Đế chế Byzantine bị giằng xé trong phong trào bài trừ thánh tượng và những cuộc đấu đá nội bộ. Người Bulgar và người Slav nhân cơ hội này để xâm chiếm Illyria, Thrace và Hy Lạp. Sau một chiến thắng quyết định ở Ogala vào năm 680, họ đã ký một hòa ước với phía Byzantine để thành lập Đế chế Bulgaria đầu tiên ở bán đảo Balkan. Đế chế Byzantine ứng phó lại với những mối đe dọa bằng một hệ thống hành chính mới và những cải cách kinh tế giúp họ đủ vững mạnh để vươn tới những thành công trong những thế kỷ sau. Nền công nghệ - kỹ thuật của người Byzantine ở thời điểm đó cũng được đánh giá là tiên tiến hơn tất cả các nước ở Tây Âu.
Bắt đầu từ năm 867, Đế chế Byzantine đạt tới đỉnh cao một lần nữa dưới thời các vị hoàng đế thuộc vương triều Macedonia. Ở bên ngoài, quân đội Byzantine chống trả người Ả Rập và người Bulgar để mở rộng lãnh thổ (tới năm 1018 thì họ xóa sổ Đế chế Bulgaria đầu tiên để hoàn tất công cuộc tái chiếm bán đảo Balkan). Ở trong nước, những vị hoàng đế như Leo VI và Constantine VII giúp nền văn hóa - nghệ thuật ở Constantinople thăng hoa (giai đoạn này cũng được gọi là thời kỳ "Phục hưng Macedonia", dù thuật ngữ này còn nhiều tranh cãi). Với những thành tựu của mình, các hoàng đế thuộc vương triều Macedonia luôn xem thường các vị vua ở Tây Âu vì xuất thân man tộc của họ. Đế chế Byzantine vẫn duy trì, dù chỉ là trên danh nghĩa, lời khẳng định chủ quyền của họ đối với các vùng đất phía Tây.
Bên cạnh những cuộc chiến, nền văn minh của Byzantine cũng đã giúp khai sáng cho nhiều man tộc. Người Slav và người Bulgar đã dần dần cải theo đạo Thiên chúa, và những tu sĩ của Constantinople thậm chí còn đi tới tận những vùng đất Đông Âu xa xôi (nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Đế chế La Mã trước đây) để truyền giáo, qua đó đặt nền móng vững chắc cho sự thống trị của Chính thống giáo Đông phương ở Nga sau này. Một yếu tố quan trọng làm nên thành công của những nhà truyền giáo này là việc họ đã chủ động sử dụng ngôn ngữ địa phương để truyền giáo, thay vì dùng tiếng Latinh hay tiếng Hy Lạp như những người đi trước. Thời hoàng kim của Đế chế Byzantine kéo dài tới đầu thế kỷ 11. Trong bối cảnh Tây Âu đang chìm trong tăm tối thì sự thịnh vượng của Byzantine đáng được xem là một đốm sáng của tri thức, một trung tâm văn hóa ở châu Âu.